Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất của Viễn Phương

Mời bạn đọc tham khảo phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất dưới đây. Với các bài phân tích mẫu này, hi vọng bạn đọc sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn ngữ văn ở trường. Bài thơ đã mang tới cho đọc giả nhiều ấn tượng khó phai mờ.

Nội dung bài viết

Tổng hợp đề văn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất của Viễn Phương

Dưới đây là tổng hợp đề văn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất của Viễn Phương đã được chọn lọc cẩn thận. Hi vọng sẽ hữu ích cho bạn đọc trong quá trình học tập và phân tích.

Đề bài: Viết bài văn phân tích Viếng lăng Bác học sinh giỏi

Bài thơ Viếng lăng Bác là một trong những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Viễn Phương. Ông sinh năm 1928 mất năm 2005, tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Viễn Phương có nhiều tác phẩm nổi tiếng và đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Ngay câu thơ đầu ta đã có thể thấy được tình cảm thiêng liêng mà tác giả dành cho Bác Hồ, qua cách xưng hô “con – Bác”. Đây là cách xưng hô thân mật mà tác giả dành riêng cho Bác Hồ, cũng là cách xưng hô mà cả dân tộc Việt Nam dành cho Bác. Tất cả nhân dân đều là những người con trung hiếu và Bác là một vị cha anh hùng vĩ đại.

Theo đó, chỉ qua phân tích đoạn thơ “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác…” ta không thể diễn tả hết cảm xúc dạt dào, cao quý của tác giả khi lần đầu được ra thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã diễn tả tình yêu thương, kính trọng sâu sắc của Viễn Phương dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.

Tiếp nối câu thơ Viễn Phương viết về hình ảnh hàng tre bên lăng Bác:

“ Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”

Tác giả đã khéo léo sử dụng hình ảnh cây tre, biểu tượng của dân tộc, để diễn tả tình cảm gần gũi thiêng liêng của mình với Bác. Đối người Việt Nam ta, cây tre là hình ảnh đại diện cho dân tộc, thể hiện cho tinh thần anh hùng, bất khuất, mạnh mẽ, kiên cường và đoàn kết. Tre đóng vai trò quan trọng trong chiến đấu, tre không ngần ngại giúp đỡ đồng bào, tre anh dũng hy sinh vì thế hệ con cháu,….Tre đã chịu nhiều vất vả, chịu nhiều bão táp mưa sa nhưng vẫn không khuất phục trước mọi hoàn cảnh, vẫn hiên ngang anh dũng “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Mở đầu câu thơ đầu tiên của khổ 2 bài thơ Viếng Lăng Bác tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Hình ảnh mặt trời của thiên nhiên nhìn mặt trời ở trong lăng qua câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng”. Đây là mặt trời của tự nhiên, mặt trời có nguồn sáng rực rỡ nhất chiếu sáng tất các sinh vật trên trái đất.

Nhưng mặt trời ấy lại thấy một mặt trời khác cũng rực rỡ và tỏa sáng như vậy: “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. Qua phân tích bài thơ Viếng lăng Bác, mặt trời đỏ trong lăng mà mặt trời ở trên cao nhìn thấy chính là hình ảnh ẩn dụ của Bác. Bác chính là ánh hào quang rực đỏ màu cách mạng. Bác đã dùng cả đời của mình để chiến đấu, hi sinh mang lại hòa bình cho dân tộc ta. Tác giả thật sáng tạo khi sử dụng hình ảnh này để ca ngợi Bác, nói cách khác Chủ tịch Hồ Chí Minh đáng kính chính là mặt trời rực rỡ nhất trong lòng người Việt Nam.

Ở câu thơ tiếp theo, tác giả miêu tả hình ảnh dòng người đi qua lăng Bác trong niềm thương tiếc, nhớ nhung vô bờ bến qua câu thơ sau:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ”

Hình ảnh tả thực so sánh dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác như những tràng hoa vô tận để dâng lên Bác. Hình ảnh này còn tượng trưng cho cuộc đời rực rỡ như hoa nở của Bác Hồ. Những bông hoa dâng lên Người niềm kính yêu to lớn nhất: “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Đây là hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho cuộc đời tươi đẹp của Bác. Bác đã sống bảy mươi chín mùa xuân và dành hết cả bảy mươi chín mùa xuân dâng trọn cho dân tộc, cho đất nước.

Đến đây tác giả đang ở trong lăng và thấy Bác Hồ đang nằm ngủ – một giấc ngủ bình yên dưới một vùng ánh sáng dịu dàng như ánh trăng dịu hiền:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Qua hình ảnh “vầng trăng” này tác giả đã thể hiện sự kính trọng của mình đối với Bác. Sau khi phân tích bài thơ Viếng lăng Bác mới thấy, với Bác Hồ, trăng là một người bạn tri kỷ. Vầng trăng đã từng vào thơ của Bác khi Bác còn trong nhà lao, cùng Bác vào chiến trận và giờ trăng lại đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với cụm từ “ vầng trăng dịu hiền” tác giả tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để so sánh với Bác. Bác Hồ của chúng ta đôi khi ấm áp như tia nắng mặt trời, đôi khi lại dịu hiền như ánh trăng.

Tiếp nữa, nhà thơ lại sử dụng thiên nhiên vô tận để liên tưởng đến Bác qua câu thơ:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Ở những câu thơ trước, tác giả ví Bác như mặt trời, như vầng trăng đến phân tích khổ 3 này lại tiếp tục ví Người như trời xanh. Lý do Bác của chúng ta được ví như những hình ảnh này bởi đối với tác giả Bác Hồ là một người có tình thương bao la rộng lớn như vũ trụ. Đó là biểu hiện của sự cao cả, vĩ đại, rực rỡ như con người và sự nghiệp của Chủ tịch kính yêu.

Dù biết Bác vẫn sống mãi trong tâm trí nhân dân và sự nghiệp cách mạng như bầu trời trong xanh vĩnh cửu. Nhưng tác giả vẫn không thể giấu nổi nỗi xót xa trong tim trước linh cữu của Bác. Nỗi đau này như ngàn mũi dao đâm sâu vào tim tác giả.

Nếu như ở những đoạn thơ trước ta được hòa chung với niềm vui của tác giả khi được từ miền Nam xa xôi ra thăm Lăng Bác. Thì ở đoạn cuối của bài thơ ta thấy được sự quyến luyến không muốn rời của nhà thơ. Ông chỉ muốn được mãi ở bên Bác để:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Phân tích khổ 4 ta thấy sự tiếc nuối vô cùng của tác giả, chỉ muốn mãi ở bên Bác. Ông nguyện làm con chim để được hàng ngày chuyện trò cùng Bác. Cũng muốn làm đóa hoa để tỏa hương thơm tươi mát dịu dành cho Bác thưởng thức. Đặc biệt hơn, tác giả muốn được làm một người con ngoan ngoãn, trung hiếu như những cây tre ở Lăng.

Việc sử dụng một loạt các động từ “muốn” lên đầu câu thơ không chỉ làm nổi bật nghệ thuật tu từ độc đáo mà còn muốn nhấn mạnh niềm khát khao được ở cạnh bên Người của tác giả. Đồng thời cũng diễn tả niềm tiếc nuối vô cùng của nhà thơ vì phải tạm biệt Bác để về quê hương. Vì tác giả biết không biết bao giờ mình mới có thể quay lại đây để thăm Người. Nghĩ đến đây thôi tác giả không thể kiềm nổi những giọt nước mắt của mình.

Bài thơ không chỉ thể hiện niềm hạnh phúc vui sướng, cùng vinh dự của tác giả, khi là một trong những người con miền Nam được đại diện ra thăm lăng Bác. Mà ta còn thấy được tình yêu thương vô bờ cùng lòng thành kính mà nhà thơ dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của dân tộc Việt Nam và nỗi xót xa trước sự ra đi của Người. Đặc biệt, ở đoạn cuối chắc chắn ai cũng sẽ cảm thấy đau nhói trước sự quyến luyến không muốn rời của Viễn Phương. Ông chỉ muốn ở lại với Bác mãi mãi và nguyện làm đủ điều để được gần Bác.

Đề bài: Viết đoạn văn phân tích đoạn thơ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Bài thơ “Viếng lăng Bác” là một trong những bài thơ hay nhất viết về Bác Hồ. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt: Trong một lần tác giả vinh dự được ra miền Nam thăm lăng Bác. Đoạn thơ “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” nằm ở đoạn thơ đầu tiên của bài thơ. Đoạn thơ đầu miêu tả khung cảnh lăng Bác cùng hàng tre xanh gắn với lịch sử Việt Nam.

Trước hết, đầu bài thơ, nhà thơ xưng hô “con – bác” vừa ấm áp vừa thể hiện sự kính trọng của nhà thơ dành cho Người. Bác xưa nay là người giản dị, gần gũi với nhân dân. Nhà thơ rất trân trọng bác nên khi được ra thăm sau bao năm xa cách, ông xúc động nghẹn ngào.

Hình ảnh hàng tre xanh mang theo ý nghĩa ẩn dụ. Cây tre là loài cây thân thuộc, gần gũi, là biểu tượng của làng quê Việt Nam. Với ý nghĩa ẩn dụ, hàng tre như hàng trăm nghìn người dân đứng bên lăng canh gác nơi bác ngủ. Biểu tượng cho dân tộc Việt Nam luôn ở bên Bác

Dù “bão táp mưa sa”, hàng tre ấy vẫn “đứng thẳng hàng” kiên cường, bất khuất. Quân đội Việt Nam với tinh thần đoàn kết, anh dũng chiến đấu được hiện lên trong bài thơ.

Với những hình ảnh đặc sắc, câu thơ giản dị, mộc mạc, nhà thơ bộc lộ sự xúc động, niềm tự hào đất nước, dân tộc Việt Nam. Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất cho ta thấy hình ảnh Bác vốn đã từ lâu in đậm trong lòng mỗi người dân đất nước.

Đề bài: Viết bài văn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác khổ 1, 2

“Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu của Viễn Phương. Bài thơ là dòng chảy cảm xúc theo chân nhà thơ trong hành trình thăm lăng viếng Bác. Tiêu biểu trong bài là khổ thơ 1, 2 đã khắc họa rõ nét nỗi nhớ, sự kính trọng ấy của tác giả.

Khổ thơ đầu là dòng cảm xúc của tác giả trước cảnh quan nơi lăng Bác. Câu thơ mở đầu như một lời tâm sự rưng rưng niềm xúc động, chan chứa tình cảm lắng sâu:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Cách xưng hô “Con – Bác” mộc mạc, gián dị mà thân thiết, gần gũi, dạt dào lình cam yêu thương, kính trọng Bác. Có nhiều nhà thơ cũng đã xưng “con” vói Bác, nhưng tiếng “con” của Viễn Phương lại mang một ý nghĩa mới, đầy xúc động. Người con “ở miền Nam”, nơi chiến trường xa xôi, suốt mấy chục năm liền luôn mong ước dược gặp Bác vào ngày chiến thắng, được: “Rước Bác vào thăm thầy Bác cười”. Giờ đây, ngày ấy đã đến, đất nước đã thống nhất nhưng Bác lại đi xa.

Việc ấy khiến lòng dân không tránh khỏi nỗi xúc động nghẹn ngào. Có lẽ bởi vậy mà tác giả dùng từ “thăm” chứ không nói “viếng” để kìm nén đau thương. Đồng thời khẳng định Bác sẽ còn sống mãi. Từ miền Nam con về thăm cha, thăm nơi Bác ở, thăm chỗ Bác nằm. Nỗi đau đã cố giấu mà giọng thơ vẫn tức tưởi, nghẹn ngào.
Câu thơ mở đầu như tiếng lòng thổn thức, xúc động, thành kính của người con không kịp về ngày “Bác đi xa”. Đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và ấn tượng đậm nét về cảnh quan bên lăng Bác là hàng tre thân thuộc.

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Thì ra đến đây, nhà thơ gặp lại một hình ảnh hết sức thân thuộc cùa làng quê, của đất nước Việt Nam, đã thành một biểu tượng của dân tộc. Từ bên ngoài, nhà thơ tiến gần đến lăng Bác. Khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng vị cha già kính yêu của dân tộc, Viễn Phương nghẹn ngào cảm xúc.

Khổ thơ thứ 2 là cảm xúc của nhà thơ trước dòng người bên ngoài lăng. Ở khổ thơ đầu, cảnh vật đang còn sương phủ thì bây giờ mặt trời đã lên cao dần. Mặt trời chiếu những tia nắng chói chang xuống làm dịu đi màn sương phủ. Các hình ảnh ẩn dụ gợi lên những liên tưởng mới mẻ và sâu lắng.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Đầu tiên, tác giả nhân hóa “mặt trời đi qua trên lăng” sau đó là hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng rất đỏ”. Mặt trời trên lăng được nhân hóa như người, chứng kiến vĩnh viễn mọi vật trên trái đất. Mặt trời trong lăng là Bác đang nằm trong lăng.

Đọc câu thơ, ta như “say” trong hào quang rực rỡ của hai ánh mặt trời. Hình tượng mặt trời của Bác được Viễn Phương liên tưởng thật sáng tạo và độc đáo qua nghệ thuật ẩn dụ.

Nếu mặt trời của tự nhiên đem lại ánh sáng cho trái đất, thì Bác đem lại ánh sáng, cuộc sống cho dân tộc Việt Nam. Đây là một sự sáng tạo mới mẻ và độc đáo của nhà thơ. Song song với đó là hình ảnh dòng người đến viếng lăng Bác mỗi ngày nối nhau kết tràng hoa bất tận.

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”

Hình ảnh thơ thật đẹp về hình ảnh Bác. Những con người được Bác soi sáng đã trở thành những bông hoa đẹp nhất dâng lên Người. Con người cảm nhận được sự vĩ đại của Bác trong lúc còn sống cho đến lúc mất đi vẫn rạng ngời thắm sắc.

Riêng mặt trời thực dù có mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân loại nhưng vẫn chưa có ai tận mắt thấy được màu sắc của nó. Ý thơ ngộ nghĩnh mà độc đáo! Điệp từ “ngày ngày” trong bốn câu thơ vừa thể hiện một quy luật tự nhiên của tạo hóa vừa miêu tả sự chảy trôi liên tục của thời gian.

Qua hai đoạn thơ, ta cũng có thể thấy được nét tài hoa của Viễn Phương khi ông sử dụng khéo léo các biện pháp nghệ thuật: Nhân hóa, hoán dụ, ẩn dụ, so sánh,… Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất ta thấy nổi bật lên tình cảm sâu nặng, kính trọng, biết ơn của mình dành cho Bác trong chuyến thăm đặc biệt này.

Đề bài: Viết bài văn phân tích khổ 2,3 bài Viếng lăng Bác

Từ ấn tượng về hàng tre bên lăng Bác, cảm xúc của tác giả khi chứng kiến dòng người vào lăng ở khổ thơ thứ 2:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

hai câu thơ đối sánh nhau, tạo nên sự sóng đôi của hai hình ảnh “mặt trời”. Đây là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, khẳng định công lao vô cùng to lớn của Bác Hồ. Tác giả ngợi ca sự rực rỡ, vĩ đại của Bác, đồng thời bất tử hóa hình tượng Người giữa vũ trụ và trong lòng dân. Trong tâm thức của nhà thơ cũng như của dân tộc Việt Nam, Bác mãi mãi là vầng mặt trời trường tồn vĩnh hằng, soi sáng đường đi cho nhân dân.

Tự hào, biết ơn Người, nhà thơ kính dâng lên Bác những tràng hoa đẹp nhất ở hai câu thơ tiếp:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”

Từ láy “ngày ngày” lặp lại trong khổ thơ diễn tả sự lặp lại của thời gian, gây ấn tượng mạnh mẽ về sự bất biến. Câu thơ đã đúc kết một sự thực cảm động, diễn ra ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác… như một quy luật bất biến của thời gian. Dòng người với niềm tiếc thương vô hạn vẫn nối nhau vào lăng viếng Bác.

Từ hình ảnh dòng người vào lăng viếng, nhà thơ đã liên tưởng, so sánh độc đáo: “tràng hoa”. “Bảy mươi chín mùa xuân” là vừa là hình ảnh ẩn dụ vừa là hình ảnh hoán dụ ngầm thể hiện cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân. Đất trời mang hương sắc, sự sống của Bác trên mọi cảnh vật. Hình ảnh thơ thật giản dị và tinh tế nhưng cũng thật độc đáo đã kết đọng biết bao yêu thương kính trọng, bao cảm phục tử hào của lòng dân với Bác Hồ kính yêu.

Ở khổ thơ thứ 3, khi được bước chân vào lăng, dòng cảm xúc của nhà thơ lại trào dâng khi thấy hình ảnh:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Không khí trong lăng thật yên tĩnh với hình ảnh Bác nằm với tư thế thanh thản như đang trong giấc ngủ bình yên. Cách nói giảm nói tránh được nhà thơ sử dụng một lần nữa khẳng định trong tâm tưởng nhân dân Việt Nam Bác vẫn còn sống mãi. Bác chỉ đang “nằm ngủ” bình an sau bao năm tháng khó khăn, bất khuất tìm đường giải cứu đất nước đang lâm nguy.

Giờ đây đất nước thống nhất Bác mới có giấc ngủ bình yên. Người nằm đó mà xung quanh là ánh sáng trong trẻo của vầng trăng sáng dịu dàng, ấm áp. Hình ảnh vầng trăng trong lăng gợi nhiều nét nghĩa liên tưởng. Nét nghĩa thứ nhất, đó là ánh sáng của ngọn đèn mờ ảo trong lăng sáng như vầng trăng. Nét nghĩa thứ hai là vầng trăng trên trời cao kia cũng như muốn đi vào trong lăng, soi sáng nơi Người đang yên giấc ngủ. Vầng trăng từ lâu đã trở thành đề tài trong thơ Bác và trở thành người bạn tri kỉ. Nét nghĩa thứ ba, hay tác giả muốn nói rằng vầng trăng dịu hiền kia chính là Bác, với tâm hồn trong sáng, thanh cao và rất đỗi dịu dàng, ấm áp.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” thể hiện sự ngợi ca, ngưỡng mộ tự hào của nhà thơ dành cho Bác. Bác vĩ đại trường tồn với thời gian trong lòng toàn thể nhân dân. Người như hóa thân vào non sông đất nước, sống mãi trong trái tim người dân Việt Nam.

Cặp từ tương phản “vẫn biết – mà sao” kết hợp với từ chỉ cảm xúc “nhói” cho thấy sự đấu tranh cảm xúc và lí trí của nhà thơ. Lí trí khẳng định Bác luôn sống mãi nhưng trở lại hiện thức thì Bác đã ra đi. Điều đó khiến tâm trạng nhà thơ như nín lặng, quặn thắt, không nói nên lời.

Qua hai đoạn thơ, tiếng lòng của tác giả Viễn Phương đã nói thay niềm xúc động của bao tâm hồn Việt. Tâm tình của nhà thơ cũng là tâm tình của mỗi người dân Việt Nam. Bác Hồ ra đi nhưng hình ảnh vĩ đại của Người vẫn in dấu mãi trong trái tim mỗi người dân Việt.

Đề bài: Viết đoạn văn phân tích cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác tóm tắt

Đã không ít nhà thơ viết nên nhiều tác phẩm đặc sắc về hình ảnh Bác sau khi mất để bày tỏ lòng thành kính biết ơn. Nổi bật lên trong các tác phẩm ấy là bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ đã để lại những cảm nhận khó phai trong lòng người đọc bao thế hệ.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ, bộc lộ tình cảm xúc động, nghẹn ngào của tác giả khi đứng trước lăng Bác. Nhà thơ sử dụng hình ảnh giản dị, quen thuộc “hàng tre”. Tre là biểu tượng từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam. Hàng tre ở bài thơ còn mang hàm ý ẩn dụ, như toàn dân tộc bên cạnh lăng bảo vệ nơi bác an nghỉ.

Mặc dù sương sớm có làm cảnh vật mờ đi nhưng tác giả vẫn cảm thấy nơi đây thật thân thuộc bởi khung cảnh “bát ngát” lũy tre xanh. Cảnh vật gợi nhớ trong Viễn Phương một thoáng liên tưởng đến phong thái của dân tộc Việt Nam: vẫn một màu xanh vĩnh cửu, hiên ngang, bất diệt trong tiếng biểu cảm “Ôi!” nhưng không hề lộ một trạng thái ngạc nhiên. Trái lại, nhà thơ cảm thấy gắn bó với dáng đứng trải dài khắp đất nước của tre mặc dù “bão táp, mưa sa” khắc nghiệt nhất

Khổ thơ thứ ba, những cảm xúc trào dâng, nghẹn ngào của nhà thơ khi vào lăng thấy hình ảnh Bác đang “nằm trong giấc ngủ bình yên”. Với hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” trong lăng và ngoài lăng. Tác giả sử dụng biện pháp đối lập, liên tưởng, tưởng tượng để ngợi ca công lao trời bể, ý nghĩa to lớn của Bác Hồ đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Khi thấy hình ảnh bác nằm an nghỉ, ông cảm thấy “nhói ở trong tim” vì những cảm xúc của mình. Đất nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, Người mới có thể an nghỉ bình yên nơi đây.

Khổ thơ cuối là những cảm nhận của Viễn Phương khi ông cùng đoàn người phải ra về. Những cảm xúc lưu luyến, bịn rịn, không muốn rời xa được bộc lộ qua từng câu thơ. Cụ từ mở đầu của câu thơ là lời nói giản dị chứa đựng niềm thương yêu, đau đớn không gì diễn tả được của Viễn Phương: “Mai về…” Ở những câu thơ cuối, nhà thơ ước nguyện trở thành “con chim, đóa hoa, cây tre” xung quanh lăng để ngày ngày được ở bên cạnh Bác. Một ước nguyện giản dị và vô cùng đẹp đẽ.

Qua bài phân tích phân tích cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác tóm tắt, ta có thể thấy được sự độc đáo và sáng tạo của Viễn Phương khi sáng tác bài thơ này. Với thể thơ tám chữ, giọng thơ trang nghiêm thành kính, tha thiết, bài thơ đã để lại ấn tượng không thể phai mờ trong tâm trí bạn đọc bao thế hệ.

Trên đây là toàn bộ các bài phân tích mẫu cho đề bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất. Qua những bài văn, đoạn văn, cảm nhận phía trên, hi vọng các bạn có thể tham khảo và học tập tốt hơn trên trường.

Xem thêm: Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo

Phân Tích, Văn Học -