Phân tích chân dung người lính “Tây Tiến” của tác giả Quang Dũng

Phân tích chân dung người lính “Tây Tiến” hiện lên hình ảnh người chí sĩ bất khuất. Tham khảo dàn ý phân tích, một số dạng đề văn đầy đủ nhất!

Mời bạn đọc tham khảo bài phân tích chân dung người lính “Tây Tiến” dành cho học sinh giỏi dưới đây để có thêm kiến thức, tư liệu và học tập thật tốt. Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những tác phẩm nổi bật, tiêu biểu nhất của văn học kháng chiến.

Nội dung bài viết

Dàn ý phân tích chân dung người lính “Tây Tiến”

Trước khi bước vào phân tích chi tiết, mời các bạn tham khảo dàn ý phân tích chân dung người lính “Tây Tiến” đã được chọn lọc sau đây. Mong rằng, qua dàn ý này, các bạn có thể làm bài mạch lạc, đủ ý và rõ ràng.

Mở bài phân tích chân dung người lính “Tây Tiến”

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Giới thiệu tác giả: Quang Dũng (1921 – 1988) là một người nghệ sĩ đa tài đa nghệ (soạn nhạc, làm thơ, viết văn,… ), nổi bật trong làng thơ Việt với tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa, đậm chất đậm hồn Hà thành.

+ Bài thơ “Tây Tiến” được in trong tập “Mây đầu ô”, được Quang Dũng sáng tác tại Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ phải rời xa trung đoàn Tây Tiến sau thời gian dài gắn bó.

– Dẫn dắt vấn đề:

+ Bài thơ “Tây Tiến” đã là tiếng lòng nhớ núi, nhớ rừng, nhớ con người và nhớ cả đoàn quân Tây Tiến của Quang Dũng.

+ Qua đó, bằng những ý thơ tài hoa, ông đã thành công khắc họa nổi bật, rõ nét và chân thật hình tượng người lính Tây Tiến.

Thân bài phân tích hình tượng người lính “Tây Tiến” trong khổ 3

– Khái quát chung:

+ Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến: Là đoàn quân có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, giải giáp quân Pháp, ra đời năm 1947.

+ Giới thiệu người lính Tây Tiến: Phần đông là những chàng sinh viên, học sinh Hà Nội, với tâm hồn lãng mạn và vô cùng phóng khoáng, tài hoa.

+ Cảm hứng sáng tác: Năm 1948, Quang Dũng phải rời xa trung đoàn Tây Tiến, nỗi nhớ đồng đội, nỗi nhớ kỷ niệm cũ đã chắp bút cho bài thơ “Tây Tiến” ra đời.

– Vẻ đẹp của tinh thần thép, nỗ lực phi thường, vượt qua mọi gian khó:

+ Con đường hành quân chông gai, nhiều thử thách: Sài Khao, Mường Lát diễn tả sự heo hút, xa xăm; các từ láy giàu liên tưởng: “Thăm thẳm”, “heo hút”, “khúc khuỷu”, điệp từ “dốc” cho thấy chặng đường toàn núi cao, rừng rộng, hiểm trở, quanh co và gập ghềnh.

+ Câu thơ “Ngàn thước… xuống”: Nhịp thơ bẻ đôi, đẩy sự nguy hiểm lên tới đỉnh điểm.

+ “Cọp trêu người”, “thác gầm thét”: Sử dụng phép tu từ nhân hóa để cho thấy sự hoang sơ, hẻo lánh, đầy rẫy hiểm nguy.

+ “Chiều chiều”, “đêm đêm”: Những cụm từ chỉ thời gian thể hiện tần suất những người lính Tây Tiến phải đối mặt với thách ghềnh, thú dữ, với gian nan, thử thách là rất thường xuyên, diễn ra đều đặn.

+ “Súng ngửi trời”: Hình ảnh nhân hóa giàu sức gợi, vừa gợi liên tưởng đến những đỉnh núi cao chênh vênh, chọc trời, vừa làm nổi bật tầm vóc lớn lao, hiên ngang của người lính giữa thiên nhiên hùng vĩ.

+ “Nhà ai Pha Luông… ”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em… ”: Những câu thơ với thanh bằng đã tái hiện khung cảnh cuộc sống bình yên, đã tái hiện rõ nét tiếng thở phào nhẹ nhõm của đoàn quân sau chặng đường hành quân gian nan, thử thách.

– Vẻ đẹp ngoại hình: Dữ dội, lẫm liệt, oai phong.

+ “Đoàn binh không mọc tóc”: Những trận sốt rét rừng khắc nghiệt đi qua, để lại cho người lính hậu quả khó xóa nhòa, làm mái tóc xanh của họ rụng hết, vừa hài hước lại vừa thương đau, đối diện cái chết vẫn ngang tàng, ngạo nghễ.

+ “Quân xanh màu lá”: Màu xanh là màu xanh của áo lính, của lá ngụy trang và cũng là màu xanh của làn da của những người lính ăn không no, ngủ không đủ nơi rừng, núi, của những người lính bị căn bệnh sốt rét rừng hành hạ suốt mấy ngày đêm.

+ “Mắt trừng”: Người lính Tây Tiến với vẻ ngoài, sức khỏe bị tàn phá bởi rừng thiêng nước độc vẫn mang vẻ đẹp của những người tráng sĩ hùng dũng năm xưa, gửi vào núi non, thiên nhiên cái nhìn dữ dội, oai phong.

+ “Đoàn binh”: Từ Hán Việt, chỉ chỉ cả trung đoàn Tây Tiến, một tập thể đông đảo đều mang cái dáng vẻ hiên ngang, lẫm liệt: Đầu không mọc tóc, da xanh nhưng vẫn dữ dội và nhiệt huyết.

– Vẻ đẹp nội tâm: Hào hoa, đa tình, lãng mạn của những người lính trẻ.

+ “Gửi mộng”, “đêm mơ”: Đoàn quân Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà thành, nên dòng máu chảy trong tim họ là dòng máu lãng tử, dòng máu tài hoa của người Hà Nội xưa đầy thi vị.

+ “Hà Nội”: Là quê hương, là gia đình, là biển trời nhung nhớ.

+ “Dáng Kiều thơm”: Những chàng trai lên đường, để lại quê nhà một bóng dáng người yêu mòn mỏi đợi chờ nơi quê nhà, đó là những nàng thơ Hà thành kiêu sa, yêu kiều và đó cũng là hậu phương tiếp cho người lính động lực để chiến đấu nơi chiến trường khốc liệt.

– Vẻ đẹp của lẽ sống: Tinh thần hi sinh cao cả.

+ “Dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: Người lính Tây Tiến về với đất mẹ ngàn thu, đau đớn, xót thương nhưng nổi bật hơn cả là sự hùng dũng, hiên ngang, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

+ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”: Họ đem cả cuộc đời để hiến dâng cho, ngay cả khi ngã xuống vẫn không được về với quê hương yêu dấu, song họ chẳng hề luyến tiếc, tất cả đều “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.

+ “Áo bào thay chiếu”: Cái chết đã được lý tưởng hóa để giảm bớt đau thương và ngợi ca những người lính, cái chết của họ là cái chết vinh quang, sự hy sinh của họ là hy sinh vĩ đại, họ là những người hùng ngoài đời thật.

+ “Khúc độc hành”: Các anh ra đi, đất trời rộng lớn cũng phải đớn đau, thiên nhiên hùng vĩ cũng cảm thấy thương xót.

Kết bài chân dung người lính “Tây Tiến”

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:

+ Giá trị nghệ thuật: Ngòi bút phóng khoáng, tài hoa, sử dụng hình ảnh thơ sáng tạo, giàu sức gợi, vận dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh đầy mới mẻ và khéo léo.

+ Giá trị nội dung: Chân dung người lính Tây Tiến hiện lên hùng vĩ, sừng sững như núi, như rừng, nhưng tâm hồn họ vẫn lãng mạn, bay bổng, đúng hồn của Hà thành thanh lịch.

– Nêu cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến.

Một số dạng đề văn phân tích chân dung người lính “Tây Tiến”

Trong quá trình học, các bạn sẽ gặp một số dạng đề văn phân tích chân dung người lính “Tây Tiến”. Bài viết này sẽ giúp các bạn tổng hợp một số đề bài quen thuộc cùng các bài viết mẫu chi tiết và hay nhất.

Đề bài: Viết đoạn văn cảm nhận về chân dung người lính “Tây Tiến” trong đoạn 3

Có thể thấy trong bài thơ “Tây Tiến”, nếu khổ thơ thứ nhất, thứ 2, Quang Dũng hướng ngòi bút đến miêu tả vẻ đẹp gan góc của người lính qua con đường hành quân khắc nghiệt, thì ở khổ thơ thứ 3, nhà thơ lại tập trung khắc họa chân dung người chiến sĩ Tây Tiến qua vẻ đẹp tâm hồn cùng lẽ sống cao cả đáng ngợi ca. Ngay từ 2 câu thơ đầu của khổ 3, ngoại hình của những người lính đã được tái hiện rõ nét:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Những người lính Tây Tiến vốn dĩ đã “không mọc tóc” ư? Chẳng phải đâu, sống lâu ngày nơi rừng thiêng, nước độc, trải qua vài trận sốt rét rừng, mái tóc xanh của họ mới rụng dần, rồi không thể mọc lại nữa. Câu thơ dường như pha chút dí dỏm, hài hước nhưng cái dí dỏm, hài hước này chẳng thể che lấp hoàn toàn hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Họ lên đường ra chiến trận với tuổi trẻ, với mái đầu xanh và giờ còn lại chỉ là tấm thân gầy guộc cùng trái tim nhiệt huyết.

Quang Dũng lý giải “quân xanh” là màu xanh của lá, nhưng sâu xa hơn, đó là màu xanh bền bỉ của màu áo lính, của chiếc mũ tai bèo, là màu xanh của nước da của những người thiếu chất. Cuộc sống kham khổ nơi núi rừng, những ngày chiến đấu không ngừng nghỉ rồi cả căn bệnh sốt rét rừng ám ảnh bao đời lính đã tàn phá cơ thể họ, đã lấy đi cái hồng hào vốn có chàng trai tuổi mười tám, đôi mươi.

Không phải một người mà là một “đoàn binh” không mọc tóc, một “đoàn binh” có nước da vàng vọt. Thế nhưng, họ vẫn có thể “dữ oai hùm”, vẫn vững tay súng, hiên ngang giữa đất trời. Quang Dũng đã sử dụng từ Hán Việt “đoàn binh” để nêu bật lên sự oai hùng, dũng mãnh của cả trung đoàn Tây Tiến, Họ mang trong mình khí thế hào hùng của đoàn quân “Sát Thát” thời Trần, sức mạnh phi thường của nghĩa quân Lam Sơn. Cách khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến của Quang Dũng làm ta bất giác nhớ đến hình tượng người tráng sĩ trong thơ của Phạm Ngũ Lão:

“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu

Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”

Không chỉ dừng lại ở miêu tả ngoại hình, ngòi bút Quang Dũng còn đi khai thác sâu hơn nữa ở vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Người lính Tây Tiến gánh trên vai sứ mệnh cứu nước, cứu nhà cả ngày lẫn đêm, ngay cả khi đi vào giấc ngủ vẫn không quên nhiệm vụ, nhiệt huyết vẫn sục sôi. Mắt họ vẫn “trừng”, khát vọng trong họ vẫn cháy bỏng. Hình ảnh này đã cho thấy lý tưởng lớn lao, lòng căm thù giặc sâu sắc của người lính Tây Tiến.

Những chàng trai tuổi mười tám, hai mươi, trong tim có đất nước, và có cả “dáng kiều thơm”. Những cô gái Hà thành kiêu sa, thanh lịch đã trở thành nơi chốn để người lính gửi nhờ giấc mộng đêm, trở thành hậu phương cho họ sức mạnh chiến đấu để trở về. Ta cũng đã từng bắt gặp ý thơ này trong tác phẩm “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. ”

Chiến tranh là mất mát, là đau thương. Quang Dũng cũng ý thức được hiện thực tàn khốc, ông không hề tránh né hay cố tô màu hồng cho bức tranh của mình:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Chiến tranh dù chính nghĩa hay phi nghĩa, vẫn luôn khắc nghiệt và đầy rẫy cái chết. Những chàng trai Hà thành lên đường, gia nhập vào đoàn quân Tây Tiến. Họ vẫn luôn nuôi hy vọng được trở về nhưng cũng chẳng hề sợ hãi cái chết. Đau đớn thay, tiếc thương thay, những người lính trong đoàn quân đã lần lượt nằm xuống, mộ các anh “rải rác” nơi “biên cương viễn xứ”. Các anh không được về với đất nước, không được về với quê hương, không được về với “dáng kiều thơm” của đời mình. Các anh phải nằm lại nơi đất khách xa xôi, phải ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ.

Nhưng chính bản thân những người lính cũng đã tự hiểu rằng, lên đường ra chiến trường là đồng nghĩa với dấn thân vào cửa tử, một đi không trở lại. Họ vẫn ra đi, họ vẫn rời ghế nhà trường để sống với lý tưởng, để thực hiện sứ mệnh cao cả của đời mình mà “chẳng tiếc đời xanh”. Họ tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình để làm nên hình hài của đất nước.

Phải nói rằng, Quang Dũng đã diễn tả sự mất mát, tang thương theo một cách rất đặc biệt. Cảm xúc xót xa, đau đớn đã phải nhường chỗ cốt cách anh hùng, dũng mạnh ngời sáng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành. ”

Những người lính Tây Tiến nằm xuống với tấm “áo bào” chứ không phải là tấm chiếu mong manh. Câu thơ diễn tả một hiện thực tàn khốc, nhưng lại được nhìn qua lăng kính đầy tình cảm của Quang Dũng. Các anh là anh hùng của thời đại, là người đi kiến tạo non sông. Như những vị vương, vị tướng khoác chiến bào ra trận, các anh về với đất mẹ trong hiển hách và vinh quang. Cuộc đời các anh hy sinh vì đất nước, quê hương, khi các anh ngã xuống, đất mẹ sẽ ôm ấp, vỗ về.

Những người lính Tây Tiến ra đi, để lại sông Mã đơn độc. Sông Mã gắn liền với đoàn quân Tây Tiến trong những lần hành quân, trở thành kỉ niệm, nỗi nhớ khắc sâu vào tiềm thức. Dường như, sông Mã cũng đã trở thành một chiến sĩ, một đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Thế nên, khoảnh khắc các anh nằm xuống cũng là lúc dòng sông đau đớn tột cùng, dội sóng dữ dội, tạo thành khúc “độc hành”. Đó là tiếng khóc của dòng sông khi bị bỏ lại, là khúc ca cuối cùng đưa tiễn các anh và cũng là sự đau xót, tiếc thương của thiên nhiên, núi rừng. Sự hy sinh của các anh là sự hy sinh vĩ đại nhất, kiêu sa nhất, đẹp đẽ nhất và xứng đáng được tạc khắc vào thời gian:

“Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. 

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”

Đề bài: Viết đoạn văn phân tích chân dung người lính “Tây Tiến” học sinh giỏi

Với chất liệu hiện thực, bút pháp tài hoa cùng một năm kề vai sát cánh, Quang Dũng đã khắc họa lên bức chân dung người lính Tây Tiến vô cùng chân thực qua bài thơ “Tây Tiến”. Và sau vài nét khắc họa bao quát hình tượng người lính ở khổ thơ 1 và 2, ông đi sâu vào khắc họa chi tiết chân dung của họ ở khổ thơ thứ 3. Người lính Tây Tiến hiện ra rõ nét trước mặt người đọc qua vẻ ngoài hài hước nhưng rất oai hùng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, 

Quân xanh màu lá dữ oai hùm. ”

Những chàng lính Tây Tiến hành quân trên khắp các cung đường với dáng vẻ đặc biệt. Đó là “đoàn binh không mọc tóc”, là một đoàn “quân xanh”. “Không mọc tóc” và “quân xanh” giúp việc ngụy trang của người lính trở lên dễ dàng hơn, họ có thể ẩn vào núi, hòa vào cây, tạo ra một lợi thế chiến đấu cho mình. Nhưng cái sự “không mọc tóc”, “quân xanh” ấy không chỉ được hiểu đơn giản như thế. Nó tượng trưng cho hiện thực chiến tranh tàn khốc, cho cuộc sống thiếu thốn, gian khổ đủ đường. Màu xanh của áo lính, lá rừng nhưng cũng là màu xanh của sự gầy gò, thiếu chất. Chính Hữu cũng đã từng miêu tả cuộc đời người lính khó khăn, đói rét:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Đời lính gian khổ, thiếu thốn, ấy vậy mà vẫn chẳng ngăn nổi nhiệt huyết của tuổi trẻ, khát vọng của người lính. Những người lính vẫn ngày đêm chiến đấu, vẫn nhất quyết “dữ oai hùng”. Họ noi theo bao thế hệ cha anh, đời đời hiên ngang, bất khuất chống giặc cứu nước, cứu dân. Họ mang theo khí thế “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”, sức mạnh “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm chói sáng” lên đường, thực hiện sứ mệnh.

Và những người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh khắc nghiệt, gian khó nhường nào, thân thể có thể gầy nhưng tâm hồn thì mãi lãng mạn, tài hoa:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, 

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. ”

Người lính Tây Tiến mơ về Hà Nội vì Hà Nội là quê hương, là gia đình và Hà Nội là nơi có “dáng kiều thơm”. Đó là những cô gái Hà thành thanh lịch và kiêu sa, là những cô gái mà các chàng lính đã trót trao trái tim, đã trót nhận chiếc khăn tay ngày ra mặt trận. Trong tim người lính có tình yêu lớn dành cho đất nước, nhưng cũng chan chứa một tình yêu “nho nhỏ” giữ cho riêng mình:

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Những vần thơ thật đẹp đẽ và êm dịu nhưng Quang Dũng cũng không thể nào mãi tránh né hiện thực rồi tô hồng cho bức chân dung người lính Tây Tiến. Chiến tranh vốn dĩ là khốc liệt, là mất mát và là hy sinh:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ, 

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. 

Những người lính đem cả cuộc đời để hiến dâng cho tổ quốc, quyết đem thân mình để quyết giữ lấy non sông. Họ chấp nhận bỏ mạng nơi sa trường, chiến trận, sẵn sàng hy sinh để đất nước được ra đời. Dẫu vậy nhưng vẫn xót xa thay, những người lính nằm xuống mà chẳng được về với đất mẹ thân yêu, phải ở lại nơi đất khách quê người, nơi biên giới xa xôi, hẻo lánh, làm những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ”.

“Áo bào thay chiếu, anh về đất, 

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Cái chết của những người lính Tây Tiến được lý tưởng hóa, cái chết nhẹ tựa lông hồng. Họ về với đất với chiếc “áo bào thay chiếu anh về đất”. Đó là chiếc áo bào của của chiến công, của lý tưởng và của hoài bão lớn lao. Những người lính là những anh hùng, dùng cả cuộc đời, mạng sống để tạc lên dáng đứng của xứ sở.

Những người lính ra đi, để lại dòng sông Mã lẻ loi giữa núi rừng Tây Bắc. Dòng sông ấy đã gắn bó với họ trên từng bước chân, từng chặng đường hành quân, đã trở thành một phần của đoàn quân Tây Tiến. Giờ đây, chứng kiến những người đồng đội thân yêu ngã xuống, nó gào thét trong đớn đau, tạo thành “khúc độc hành” để tiễn những người lính chặng đường cuối cùng.

Đề bài: Viết đoạn văn phân tích vẻ đẹp bi tráng của người lính “Tây Tiến” trong đoạn 3

Bài thơ “Tây Tiếnchính là tiếng lòng nhớ thương, cảm phục và ca ngợi mà Quang Dũng dành cho những người lính đoàn quân Tây Tiến. Nếu ở những vần thơ đầu, ông đã cho người đọc thấy một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, một hiện thực chiến tranh đầy khắc nghiệt, thì ở đoạn thơ thứ 3 của tác phẩm, Quang Dũng đã tập trung khắc họa vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Hiện lên trước mắt người đọc ngay từ những câu thơ đầu tiên là chân dung người lính oai hiên ngang, bất khuất nhưng cũng rất đỗi bi thương:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Giữa thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, vẻ đẹp ngoại hình của người lính cụ Hồ được Quang Dũng khắc họa với những ý thơ đầy hài hước. Họ không phải là đoàn quân với sức mạnh dời núi, lấp bể mà là là “đoàn binh không mọc tóc”. Đâu là nguyên nhân khiến cả một đoàn binh có cái dáng vẻ khác thường, đặc biệt đến vậy?

Câu thơ dí dỏm nhưng lại tái hiện một cuộc sống đầy bi thương, thiếu thốn. Bởi vì những cơn đói, cơn khát, bởi vì những trận sốt rét khủng khiếp, bởi vì những lần hành quân, chiến đấu không ngơi nghỉ, tất cả đã biến những người lính trẻ mười tám, hai mươi tuổi thành cả một “đoàn binh không mọc tóc”.

Phải nói rằng, những trận sốt rét nơi rừng thiêng nước độc đã trở thành nỗi ám ảnh của bao nhiêu thế hệ đời lính. Để rồi, dưới sự tàn phá của cơn bạo bệnh, mái đầu họ không có tóc và cả đoàn quân cũng hóa “quân xanh”. Màu xanh này là màu xanh của lá, của rừng, màu xanh của áo lính, quân trang nhưng cũng là màu xanh của những làn da thiếu chất, gầy guộc. Quang Dũng đã đưa vào bài thơ của mình một hình ảnh hiện thực trần trụi của đời lính để rồi tái hiện chân dung người lính Tây Tiến với những nét bi thương của chiến tranh.

Khó khăn, gian khổ nhưng tâm hồn những người lính Tây Tiến vẫn ngời sáng những nét tài hoa và lãng mạn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Giữa chốn hiểm nguy, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn có thể mộng và mơ. Họ mơ về quê hương, đất mẹ, mơ về bóng dáng người thương. “Mộng biên giới” phải chăng chính là giấc mộng lập công, giấc mộng chiến thắng, giấc mộng tổ quốc sạch bóng ngoại xâm và họ được trở về với gia đình, với “dáng kiều thơm” của đời mình.

Có thể thấy, mặc dù mới chỉ là những chàng trai đang ngồi trên ghế nhà trường, nhưng tình yêu đất nước trong họ vẫn lớn lao vô cùng. Họ sẵn sàng từ bỏ cây bút trên tay, vác trên vai cây súng, bỏ lại thầy cô mảnh tình nhỏ, đến chiến trường rồi gửi về giấc mộng xa. Những người lính dù họ đến từ đâu, đã từng làm gì thì khi mặc áo lính, họ đều trở thành những người nồng nàn yêu nước. Ví như những người lính xuất thân từ nông thôn, ruộng đồng của Chính Hữu:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Chiến tranh là chết chóc, là hy sinh, hiện thực luôn tàn khốc như vậy và Quang Dũng cùng không hề tránh né, ngược lại ông đã đẩy nỗi bi thương, đau đớn, mất mát đến cao trào, đỉnh điểm:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Sau những vần thơ lãng mạn, đẹp đẽ với những tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương thì câu thơ chợt trùng xuống, nhuốm màu buồn tang tóc, gợi ra độc giả thấy rõ hơn hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã phải ngã xuống trên chiến trường bom đạn, họ không thể trở về với gia đình mà nằm “rải rác”, lẻ loi nơi biên cương xa xăm, lạnh lẽo.

Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi thương, tang tóc, nhưng nổi bật hơn cả là sự tráng lệ, sự kì vĩ, lớn lao của những người lính Tây Tiến:

“Áo bào thay chiếu anh về đất. 

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Những người lính về với giấc ngủ ngàn thu với tấm áo choàng của chiến công, của hoài bão và lý tưởng. Các anh là những anh hùng, những tráng sĩ góp sức mình để cứu nước, cứu dân. Thế nên, như những vị vương, vị tướng, các anh xứng đáng được đất mẹ vỗ về với tấm “áo bào” chứ không phải tấm chiếu mỏng manh.

Các anh ra đi, cả đất trời thương nhớ, cả núi rừng cùng xót thương. Con sông Mã cũng vậy, nó gào thét trong đau đớn để rời tạo thành một “khúc độc tấu”, tiễn đưa các anh đoạn đường cuối cùng. Bởi nó là chứng nhân của thời gian, là người bạn đồng hành của những người lính. Và giờ đây, khi họ ngã xuống, nó “gầm” lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào cõi bất tử.

Như vậy, bài thơ “Tây Tiến” khắc họa rất rõ nét, chân thực chân dung người lính Tây Tiến. “Tây Tiến” nói riêng và sự nghiệp thơ của Quang Dũng nói chung sẽ sống mãi với thời gian. sống mãi trong sống mãi trong trái tim người đọc. Mong rằng, qua bài phân tích chân dung người lính “Tây Tiến” các bạn có thể hiểu hơn về hình ảnh thơ đặc sắc này. 

Xem thêm: Phân tích 7 câu đầu bài “Đồng chí” – Chính Hữu hay và sâu sắc nhất

Phân Tích, Văn Học -