Phân tích bài Chí khí anh hùng của Nguyễn Du

Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du chắc chắn không thể bỏ qua Truyện Kiều – một trong những kiệt tác nổi bật nhất của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Qua Truyện Kiều, tác giả không chỉ bày tỏ niềm thương cảm, chia buồn trước cuộc đời đầy bi kịch của nàng Kiều qua hình ảnh Từ Hải, Nguyễn Du muốn tô đậm hình ảnh của một người anh hùng cứu dân, dẹp loạn. Trong phân tích bài Chí khí anh hùng, nhân vật Từ Hải nổi bật lên với những phẩm chất phi thường khát vọng cao cả của một người anh hùng dám nghĩ dám làm.

Bốn câu thơ đầu bài chí khí anh hùng

Mở đầu đoạn trích bằng bốn câu thơ đầu bài chí khí anh hùng, tác giả nhấn mạnh lí tưởng anh hùng của nhân vật. Đồng thời thể hiện khát vọng bênh vực chính nghĩa của Từ Hải. Nguyễn Du gây khó dễ cho nhân vật chính Từ Hải khi đặt chàng vào sự tương phản trong hai khoảng không gian cả về tính chất lẫn ý nghĩa. Điều này được thể hiện trong 2 thơ câu đầu tiên. 

“Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Một là nơi khuê phòng tràn ngập tình yêu đôi lứa đầy cám dỗ mà không một trang nam nhi nào có thể vượt qua phong trần. Mặt khác, không gian còn lại chính là thế giới bên ngoài rộng lớn, ở đó người con trai có thể thỏa sức tung hoành. Một đấng trượng phu thì nhất định không được do dự, chùn bước mà phải dứt khoát đưa ra lựa chọn của mình. 

Nhân vật chính của đoạn trích hiện lên với hình ảnh một nam nhân không phải là con người của những đam mê thông thường, thay vào đó Từ Hải chính là hiện thân của một trang nam tử đặt sự nghiệp vĩ đại – sự nghiệp của bậc anh hùng lên hàng đầu. Do vậy, hai chữ “trượng phu” được Nguyễn Du sử dụng càng toát lên sự oai hùng của nhân vật. Qua đó thể hiện sự chân trọng của nhà thơ đối với hình tượng người nam nhi trí lớn. 

Xuyên suốt tác phẩm Truyện Kiều của mình, đại thi hào chỉ sử dụng hai từ “trượng phu” duy nhất một lần dành riêng cho nhân vật Từ Hải. Phân tích bài Chí khí anh hùng càng nhấn mạnh hơn nữa khát khao lập lên nghiệp lớn của trang nam nhi – Từ Hải. Mà có lẽ thứ tình cảm vợ chồng giản đơn kia đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm phút giây nào nữa. Dường như lý trí đang thôi thúc chàng theo đuổi hoài bão của đời mình. 

“Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Cái nhìn của Từ Hải luôn hướng vào, hướng tới một khoảng không gian xa hơn rộng hơn, ở đó bậc hào kiệt thỏa sức vẫy vùng với những đam mê, lý tưởng riêng. Thông qua hình ảnh thanh gươm trên yên ngựa dưới ngòi bút của đại thi hào đã góp phần tái hiện hình ảnh người nam nhi mạnh mẽ, hào hùng. Đồng thời cũng mở ra tâm thế sẵn sàng của nhân vật Từ Hải, không chút do dự và luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết.

Tám câu thơ tiếp bài chí khí anh hùng

Lời chia tay thường đẫm nước mắt và đôi khi là sự miễn cưỡng của người ở lại với người ra đi. Tám câu thơ tiếp bài chí khí anh hùng đã kể lại câu chuyện giữa Từ Hải và nàng Kiều về buổi ly biệt ngày hôm ấy. Nàng không muốn ở một mình, trên giường đơn trong căn nhà lạnh lẽo. Kiều luôn muốn cùng Từ Hải gánh vác sự nghiệp mà chàng theo đuổi: 

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi

Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”

Theo nho giáo Nho, phụ nữ cần tuân thủ theo quy tắc “tam tòng tứ đức”. Cụ thể khi ở nhà thì con gái phải theo cha, vợ phải theo chồng, chồng chết thì theo con. Có thể thấy rằng Thúy Kiều đã rất khéo léo khi viện dẫn luật Nho giáo để được cùng chàng – Từ Hải kề vai sát cánh đi khắp phương trời mưu cầu nghiệp lớn. Trong hoàn cảnh ấy, Thúy Kiều không muốn chia tay Từ Hải, người vừa là chồng vừa là ân nhân đã cứu sống nàng Kiều thoát khỏi cảnh giam cầm. Vậy nên mong ước bên cạnh chăm lo cho chàng là điều vừa hợp với thuần phong mỹ tục cũng phù hợp với tâm ý của nàng. Qua phân tích bài Chí khí anh hùng có thể khẳng định mong muốn này hoàn toàn chính đáng, vì con gái lấy chồng phải vâng lời chồng dù khó khăn, gian khổ nhưng Kiều nguyện ở bên Từ Hải.

Cả hai cùng suy nghĩ tại sao Kiều vẫn chưa thể “ thoát ra” được người con gái theo quan niệm xưa. Đối với Kiều, việc ở cạnh Từ Hải là trách nhiệm đối với người chồng nhưng đồng thời nó cũng thể hiện tình cảm và niềm mong mỏi được gắn bó với chàng đến hết cuộc đời. Lời Từ Hải chính là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều hãy vượt qua những chông gai trước mắt để hướng tới tương lai tươi sáng hơn, đừng quá lo lắng cho mình nữa. Từ Hải đã thuyết phục và hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Để Hải xây dựng sự nghiệp và danh vọng, cho đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường trở về cùng nàng thực hiện đầy đủ nghi thức rước nàng về làm dâu. Cả hai gặp gỡ với âm thanh sôi động của một chiếc chiêng rơi xuống đất và cảnh những lá cờ xếp hàng dài trong thành phố.

Sáu câu thơ cuối bài chí khí anh hùng

Nếu như những câu thơ trên thể hiện một tinh thần anh hùng gắn liền với tình yêu và sự kính trọng của Kiều. Thì ở sáu câu thơ cuối bài chí khí anh hùng, tác giả hướng tới việc lột tả sự quan tâm, lo lắng của Từ Hải dành cho Thúy Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Chàng đã biết trước con đường đi của mình và bởi chẳng ở đâu là nhà, chẳng có chỗ dung thân. Dù biết nàng luôn mong muốn bên mình trong bất cứ hoàn cảnh nào, tuy nhiên Từ Hải vẫn lấy đó làm cái cớ để Kiều ở nhà và mong nàng hiểu, thông cảm cho quyết định của mình. Đoạn thơ cho thấy nỗi buồn của một trang nam nhi khi mới lập nghiệp với nhiều khó khăn, vất vả. Trong sáu câu thơ cuối bài Chí khí anh hùng, những lời nói ân cần ấy được tiếp nối bằng một ước nguyện bấy lâu nay.

Điều đó chứng tỏ chàng là người không chỉ có khát vọng, hoài bão mà còn là có cả sự quyết tâm với ý chí và nghị lực phi thường. Qua cuộc nói chuyện giữa Kiều và Từ Hải, tác giả đã trình bày quan niệm về trang nam nhi vừa có sự thống nhất giữa cái khiêm tốn, tầm thường vừa có sự kiên định, nhiều hoài bão. 

Từ Hải không chỉ có hoài bão lớn mà còn vô cùng tâm lý, yêu thương, thấu hiểu, kính trọng nàng Kiều. Mạch thơ theo lối viết nhịp 2/2/2 kết hợp những động từ mạnh liên tiếp góp phần diễn tả sự quyết tâm và mạnh mẽ của nhân vật Từ Hải. Từ Hải không bao giờ lo lắng, chần chừ hay do dự mà luôn mạnh mẽ, quyết đoán trong mọi tình huống. 

Nguyễn Du đã sử dụng “tiếng chim” cổ điển cùng với những hình ảnh tượng hình để làm nổi bật vẻ đẹp lộng lẫy, tư thế phi thường và vương giả của Từ Hải trước thiên nhiên bao la, dường như ông đã chọn những hình ảnh đẹp nhất để khắc họa và tán dương tầm nhìn vô cùng lạc quan, chí tiến thủ của Từ Hải.

Tóm lại, qua phần phân tích bài Chí khí anh hùng, chỉ bằng một đoạn thơ ngắn nhưng hình ảnh nhân vật Từ Hải như xuất hiện với hình ảnh một đấng nam nhi thực thụ. Mặc dù phải đối mặt với nhiều gian nan thách thức nhưng vẫn kiên định với hoài bão và ước mơ của mình. Do vậy với lối tạo dựng hình ảnh nhân vật chân thực thông qua ngòi bút của Nguyễn Du đã góp phần tô đậm hơn khí thế của trang nam tử – Từ Hải.

Xem thêm: Phân tích tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận

Phân Tích -