Phân tích Tràng Giang của Huy Cận

Huy Cận là một trong nhiều tác giả nổi tiếng của giai đoạn Thơ mới (1930-1945). Hầu hết các tác phẩm của ông đều sự đan xen giữa cổ điển và hiện đại. một sự tương đồng lớn trong cách thức sáng tác của tác giả tại hai thời kỳ trước và sau Cách mạng Tháng Tám thành công. Công cuộc đổi mới gắn liền với sự chuyển mình từ u uất, buồn  sang không khí hân hoan, tươi vui. Tràng Giang một trong những bài thơ hay của Huy Cận. Phân tích Tràng Giang nói lên nỗi đơn, của con người giữa cảnh quê hương da diết. Tràng Giang được in lại trong cuốn Lửa thiêng năm 1940. Bài thơ nói lên nỗi tiếc thương vượt bao thế hệ, một nỗi tiếc thương không lối thoát nên cứ như kéo dài tận.

Nội dung bài viết

Phân tích đoạn 1 Tràng Giang

Chắc hẳn bạn đọc nào cũng sẽ ấn tượng với khổ thơ đầu tiên bài Tràng Giang. Chỉ bằng 4 câu của khổ thơ đầu bài thơ Tràng Giang ngắn gọn, tác giả đã phác họa nên cảnh thiên nhiên tươi đẹp trước một trái tim đơn. Cảm nhận chủ đạo của tác phẩm “khổ”, tác giả gửi gắm một nỗi buồn hình. Hình ảnh người đàn ông trước biển “trời rộng, sông dài” thật nhỏ đơn. Với cách phân tích đoạn 1 Tràng Giang sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này của Huy Cận.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Mở đầu bài thơ, một con sông dài, rộng hiện ra trước mắt tạo ra một khoảng không gian rộng lớn và thiếu vắng bóng người:

Câu thơ đã thể hiện rõ nét cảnh vật bao la tình cảm ẩn chứa trong lòng của nhà thơ chỉ trong bảy chữ. “Gợn sóng” Hình ảnh những con sóng nhỏ đung đưa trên dòng sông dài, rộng khiến lòng người hồ khi bắt gặp cảnh tượng này. đây Huy Cận đã sử dụng cụm từ “thông điệp như một lời nhắn nhủ để nói lên cảm xúc của mình. 

Con sóng cho ta một cảm giác rất nhẹ nhàng, nhưng không, cứ đẩy,điệp điệp” cứ nối tiếp nhau không dứt, cuốn con người ta vào những nỗi buồn dai dẳng. Hai câu thơ tiếp giúp người đọc hình dung rõ ràng hơn về không gian rộng lớn của cảnh vật và đất trời.

“Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Xuất hiện trên con thuyền trước khung cảnh bao la, lênh đênh trên sông rộng khiến ta càng cảm nhận rõ nét hơn nỗi cô đơn, lẻ loi của cảnh vật cũng như chính tâm trạng con người. 

Ý tưởng rằngthuyền” nước”  những vật thể song song không thể chia tách, nhưng qua con mắt của Huy Cận chúng lại chẳng thể hòa làm một. Hình ảnh đối cực của “thuyền” “nước” – hai vật thể song song trải dài theo hàng trăm hướng, giúp ta hiểu hơn nỗi đau xót nỗi lòng của nhà thơ.

Nếu thuyền, sông, sóng, nước đều đã quá quen thuộc với người đọc bài thơ thì chắc hẳn người đọc sẽ cùng ngạc nhiên trước những hình ảnh nhà thơ mượn để minh họa trong câu thơ cuối của đoạn thơ đầu.

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

thể nói đây câu thơ “đắt” nhất của đoạn đầu, chỉ với 7 từ đã lột tả trọn vẹn về tâm trạng tác giả. “Củi” bình dị, chất phác, tưởng chừng như chẳng ý nghĩa về mặt thi vị nhưng trong mắt Huy Cận lại trở nên thật gợi cảm. Một hình ảnh ẩn dụ mang đến sự hiện đại mới lạ cho người đọc. Phép đảo ngữ “cành khô từ gốc cây” gợi lên nỗi đơn, lạc lõng, gần như “khô héo” thiếu sức sống. Đây cũng tâm trạng của tác giả, nhiều người bịn rịn mất nước.

Cảm nhận khổ 2 tác phẩm Tràng Giang

Mở đầu bài thơ là nỗi đượm buồn của nhà thơ trước khung cảnh bao la, rộng lớn. Tong đó những con sóng đang lăn tăn theo chiều gió với không gian hoàn toàn tĩnh lặng khắc họa nỗi cô đơn bao trùm lên cảnh vật. Thuyền cứ trôi và để lại nỗi buồn miên man cho nước – người ở lại. Trong khi đó hình ảnh cành củi khô đơn độc được đảo lên đầu càng tô đậm hơn sự tầm thường, thiếu sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. 

Tác giả càng nhấn mạnh hơn nỗi buồn miên man khi cảm nhận khổ 2 tác phẩm Tràng Giang:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Liệu có phải đau buồn, bất lực và cảm giác mất mát không còn là cành củi khô mà không khí hiu quạnh dường như đã bao trùm lên toàn bộ cảnh vật? Những hình ảnh trong bài thơ tuy đơn giản nhưng lại tóm gọn được tâm tư tình cảm của rất nhiều người lúc này. Nhìn xung quanh, nó rất lớn và không có dấu hiệu của sự sống ở bất cứ đâu. 

Phân tích khổ 3 bài Tràng Giang

Không có phà, không có cầu, dù chỉ một chút quen thuộc cũng rất khó tìm thấy. Cả khổ thơ đều là cảnh vật thiên nhiên với hình ảnh dòng sông từ trên xuống dưới, từ xa lại gần, nhưng tất cả chỉ còn lại bờ xanh, bãi vàng. Khi phân tích khổ 3 bài Tràng Giang, chúng ta có thể thấy sự cô đơn và đau buồn của con người không có dấu hiệu cạn kiệt hay thu hẹp theo bất kỳ hướng nào.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Lần này, hình ảnh cánh bèo quen thuộc lại xuất hiện. Trong thơ cổ, nó là hiện thân của kiếp người lênh đênh giữa cuộc đời. Phải chăng đó là nỗi buồn, sự bơ vơ và mất mát không phải từ một cây gậy khô mà của cả một thế hệ không biết đi về đâu? Những hình ảnh trong bài thơ tuy giản dị nhưng lại tóm gọn được tâm tư tình cảm của rất nhiều người lúc này. Nhìn xung quanh, nó rất lớn, và không có dấu hiệu của sự sống ở bất cứ đâu. Những thông điệp tiêu cực phủ bóng đen lên những người dân ở đây. Không có phà, không có cầu, dù chỉ một chút thân thiết cũng khó. Nhìn dòng sông từ trên xuống dưới, từ xa đến gần, hai chữ ấy cảm thấy nhẹ nhàng và thoáng chút buồn, nhưng tất cả chỉ còn lại bờ xanh, bãi vàng.

Cảm nhận khổ 4 bài thơ Tràng Giang

Với cảm nhận khổ 4 bài thơ Tràng Giang, thế giới tự nhiên Huy Cận tạo ra luôn một không gian hùng vĩ, ấn tượng. Những chất liệu rất nổi tiếng trong thơ cổ điển được tác giả sử dụng một cách uyển chuyển. Điều mới mẻ tạo nên sự khác biệt chính là cách nhà thơ kết hợp nhuần nhuyễn chúng với duy thơ đương đại. Cả hai đều cảnh hoàng hôn mờ ảo, buồn đẹp với biểu cảm gợi nhớ đến một căn phòng buổi chiều. Đồng thời, gợi lên những cảnh quan hùng vĩ. Kể tiếp đoạn thơ sau, đó một nghệ thuật rất cao của nhà thơ:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Cánh chim nghiêng nghiêng như mang theo hoàng hôn rực rỡ đôi cánh nhỏ bé với bóng dáng buổi chiều tà. Vẫn kỹ thuật tương phản quen thuộc trong thơ ca cổ, cánh chim nhỏ bé, bên kia chân trời rộng lớn với hình ảnh thiên nhiên bao la. Dường như khiến bóng người choáng ngợp với cảnh vật bao la. Dấu ba chấm không chỉ đơn thuần để ngắt câu mà nó còn mang dụng ý nghệ thuật sâu sắc nhằm nhấn mạnh hơn không gian bao la, bát ngát đến vô tận. Con chim lẻ loi đơn độc này dường như đang mang một gánh nặng, một bóng chiều trong mình, không chỉ trong cảm xúc, còn trong dòng chảy nghệ thuật đang tiến trên trang giấy.

“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Cụm từ “dợn dợn” khiến con người ta càng trở nên lo lắng. Việc thể hiện nỗi đau, nỗi sợ hãi thường trực của người đàn ông thành gia lập thất trong lòng mình là một minh chứng cho tài năng thơ ca của tác giả. Với làn khói trắng hoàng hôn nơi tâm hồn nhân vật trữ tình gửi gắm nỗi niềm quê nhà thiếu vắng bấp bênh. 

Bài thơ này thể hiện nỗi buồn chung của bao người. Nhưng sự đau buồn toát ra từ vẻ đẹp thiên nhiên là thứ lạc lõng và không mang cảm xúc. Phân tích Tràng Giang là bài thơ mang phong cách cổ điển trong hình ảnh và giọng điệu, nhưng lại mang đặc điểm của thơ hiện đại ở không gian màu sắc, ngôn từ và ý tứ. Tìm kiếm có liên quan sẽ giúp tái hiện toàn bộ bức tranh của bài thơ cũng như tác giả Huy Cận.

Xem thêm: 

Phân Tích - Tags: